Người Việt ở Berlin và bức tường h́nh trụ

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

Người Việt ở Berlin và bức tường h́nh trụ Phạm Việt Vinh Bê tông cốt thép của bức tường ngăn cách Đông-Tây Berlin vỡ vụn từ 13 năm hầu như vẫn để lại nguyên vẹn sự cách chia trong suy nghĩ, trong tư tưởng giữa người Việt Đông-Tây; và, buồn hơn cả thân phận người Đức, dân Việt ḿnh c̣n bị níu kéo thêm bởi sự phân tuyến tinh thần được "di tản" từ Việt nam qua.

-------------------------------------------------------------------------------- Người Việt ở Berlin

Đầu tiên, mục sư Thomas rất lấy làm lạ khi thấy trong các buổi giảng lễ của ông ở Berlin có hai nhóm người châu Á luôn ngồi tách xa nhau. Không chỉ vậy, những lúc nói chuyện tại tiền sảnh nhà thờ, hai nhóm người này lại có ư tránh nhau, nh́n nhau với ánh mắt xa lạ, e dè. Sau này, ông mục sư c̣n ngạc nhiên hơn nữa khi biết rằng, tất cả họ đều là người Việt nam- chỉ có điều, một nhóm là người Việt Tây Berlin, c̣n nhóm kia là người Việt Đông Berlin.

Thực ra, sự phân biệt này không hoàn toàn chính xác. Theo ước đoán của chính quyền Đức, số người Việt hiện nay ở Tiểu bang Berlin xấp xỉ trên 40 ngàn , trong đó, số người có đăng kư nhân khẩu chính thức là khoảng 12 ngàn (Tây Berlin khoảng 4 ngàn, Đông Berlin khoảng 8 ngàn), kể cả gần 3 ngàn người đă nhập quốc tịch Đức. Như vậy, gần 3/4 số người Việt ở Berlin không có giấy tờ hợp lệ - họ là những người đang xin tỵ nạn (nhưng chưa hoặc không được công nhận tỵ nạn) tại các tiểu bang khác dồn về Berlin để t́m cách làm ăn.

Đối với mọi sắc dân xin tỵ nạn, nhà nước Đức đều có trách nhiệm lo chỗ ở (tại Berlin nói riêng và các tiểu bang phía Đông nói chung, là các chung cư trung b́nh 2-3 người một pḥng), với chi phí chỗ ở khoảng 300-500 euro mỗi tháng. Nếu tính cả phí tổn bảo hiểm y tế b́nh quân 200 euro/tháng và các dịch vụ xă hội khác (như giảm giá tàu xe, miễn phí tư pháp,...) và tiền ăn mặc 160-200 euro/tháng được phát (gọi là trợ cấp tỵ nạn), th́ chi phí của chính quyền cho một người xin tỵ nạn là khoảng xấp xỉ 1000 euro mỗi tháng.

Tuy nhiên, đa phần người xin tỵ nạn Việt nam c̣n rất trẻ, c̣n rất nhiều nhu cầu, nên gần 200 euro tiền mặt đối với họ là không đủ. Bà Meinbach- nhân viên xă hội một trại tỵ nạn dành cho thanh thiếu niên ngay gần trung tâm Berlin "hết sức ngạc nhiên khi thấy hầu hết các cô cậu tỵ nạn Việt nam đều xài quần áo mác-mỏ đắt tiền và hút thuốc lá sang chứ không dùng thuốc quấn".

Lư do đơn giản là hầu hết dân xin tỵ nạn Việt nam đều không trông chờ (có nhiều người c̣n "khinh") trợ cấp tỵ nạn; và họ đều t́m kế kiếm tiền riêng.

Nơi trú ngụ của dân xin tỵ nạn từ xa đến ở Berlin là nhà người quen hoặc là những căn hộ nhỏ nhờ người quen thuê hộ. Điều kiện ăn ở và sinh hoạt trong những "tổ hợp chung chạ" bất hợp pháp này cũng chẳng khá hơn so với ở chung cư tỵ nạn, có những căn hộ đứng tên một người thuê, nhưng tối đến là 9-10 người lăn lóc trên những tấm đệm trải tạm. "Nhưng dù sao, người ḿnh ở với nhau vẫn cứ vui hơn, và cũng tiện cho chuyện làm ăn hơn"- một thanh niên 19 tuổi cho biết như vậy. Hàng xóm người Đức "không thể tưởng tượng nổi" và không dễ chấp nhận hiện trạng "vui vẻ" này, nên chỉ những hăng nhà chả mấy đàng hoàng mới dám "nhắm mắt" cho thuê những căn hộ trên.

Điều không may cho con số 3 /4 này là, theo luật tỵ nạn của Đức, họ chỉ được phép cư ngụ và di chuyển trong phạm vi địa phương (quận, huyện, thành phố) mà họ đă nộp đơn xin tỵ nạn, và trong thời gian chưa hoặc không được chấp nhận tỵ nạn này (tỷ lệ người Việt được công nhận tỵ nạn tại Đức là 2-3 phần ngàn), việc xin được giấy phép lao động, đặc biệt ở các tiểu bang phía Đông, là một điều không tưởng. V́ vậy, 3 /4 người Việt ở Berlin phải ở "chui", và ngoài việc ăn trộm hay bán thuốc lá lậu thuế, nếu kiếm được việc làm trong một cơ sở kinh doanh của người Việt nam nào đó, th́ cũng là làm "lậu". Đối với số người này, việc bị cảnh sát bắt giữ và đuổi về vùng quy định là một nguy cơ luôn lơ lửng trên đầu.

Tại Berlin, cũng có khoảng 2000-3000 người Việt nam được đăng kư xin tỵ nạn và tạm dung- phần lớn là thanh thiếu niên hoặc những người khai bớt tuổi thành thanh thiếu niên, và cũng có những người từ nơi xa đến đây không phải để làm ăn phi pháp. Những người này "chui" vào Berlin mấy triệu dân này "để có bạn cho vui".

(Nhiều trại tỵ nạn tại các tiểu bang khác phía Đông được tu sửa từ những trại lính Liên Xô cũ, ở tách hẳn khỏi những khu vực dân cư). Một cô gái trẻ cho biết: "Mấy đứa bọn em suốt ngày nằm xem chương tŕnh TVT 4 hoặc băng phim tập Trung quốc, Việt nam. Thực ra, cũng có đứa thích xem chương tŕnh Đức, nhưng mù tịt tiếng, nên đành chịu...C̣n quay trở về Việt nam ư? Về đó, thần thế không có, chúng em biết làm ǵ? Mất bao nhiêu tiền mới sang được đến đây, nay về tay không, biết ăn nói với cha mẹ và làng nước ra sao? Thôi th́ người ta cho ở ngày nào th́ biết ngày đó vậy!".

Rồi ở đây, cuộc sống bất ổn đến mức bấp bênh, khép kín đến mức bế tắc này sẽ dẫn những chàng trai, cô gái đó tới đâu? Cảnh sát Đức cho biết: trong người Việt, nạn nghiện ma túy đă trở nên trầm trọng và đă có vài cô gái Việt phải bán thân.

So với số người này, 1 /4 đồng bào c̣n lại (mà bà con tỵ nạn gọi gộp lại là "kiều", Việt kiều- để chỉ những đồng hương ở phía Tây, hay là "dân có Pass", dân có hộ chiếu - giấy tờ với dấu của Đức cho phép thường trú, dùng để chỉ dân "cựu lao động hợp tác" phía Đông ), có những quan tâm hoàn toàn khác. Tại nhà thờ đă kể trên, câu chuyện giữa những người được gọi là "dân Tây Berlin" chủ yếu xoay quanh chuyện xă hội Đức, chuyện công sở, hội họp, chuyện tổ chức dạ hội Party,...

Đến nước Đức từ trước 30.4.1975 (phần đa là sinh viên du học) hoặc sau đó (là thuyền nhân), họ đă được chính quyền sở tại ưu ái khá nhiều. Hoàn toàn không phải lo đến chuyện quy chế lưu trú, họ dễ dàng được tham gia các chương tŕnh học tập, đào tạo và nhanh chóng ḥa đồng vào xă hội Đức. Phần đông những người này thạo tiếng Đức, có công ăn việc làm ổn định, và ở ngay cái đất nước c̣n khá là "quốc gia chủ nghĩa" này, nhiều người trong họ vẫn có vị trí nhất định trong xă hội, có người là giáo sư viện trưởng y khoa, có người là chuyên viên cao cấp của công ty lớn,...

Vậy nên chẳng có ǵ làm lạ khi nỗi đắn đo của họ khi hè đến là đi nghỉ mát ở Hy lạp hay ở Hoa kỳ, hoặc là cuối tuần này đi khiêu vũ ở đâu. Nếu ai trong họ không may bị thất nghiệp quá lâu, th́ việc nhận trợ cấp xă hội đảm bảo cuộc sống cũng rất nhẹ nhàng. Trong con số hơn 4 ngàn người Việt ở Tây Berlin đă có khoảng gần 3 ngàn người là công dân Đức, và nước Đức luôn phải có trách nhiệm đối với họ.

Đồng hương của họ ở phía Đông th́ ít được lưu tâm hơn. Nội dung chủ yếu câu chuyện của họ là t́nh h́nh cửa hàng buôn bán, là chuyện về phép thăm nhà, chuyện học hành của con cái. Tuyệt đại đa số có nguồn gốc là những người từ các tỉnh miền Bắc Việt nam sang "lao động hợp tác" tại Cộng ḥa Dân chủ Đức trước đây, họ chỉ được nước Đức thống nhất chính thức cấp quy chế thường trú từ 1997, đa phần kèm theo điều kiện là không được đ̣i hỏi trợ cấp xă hội, tức là họ bắt buộc phải tự lo cho đời sống của ḿnh.

Với 5-6 năm được phép chính thức hóa "trung tâm cuộc sống" cá nhân trong một môi trường nói chung là mới lạ, kiếm việc làm trong hăng xưởng hay công sở chẳng khác nào "ṃ kim đáy biển", nên hầu hết người Việt bên Đông đều phải làm chủ các hăng mini như quán ăn, quán báo, cửa hàng quần áo rẻ tiền, hàng xén, hàng thực phẩm,…cũng là lẽ đương nhiên. Một số ít đi làm hăng th́ cũng chỉ được nhận những việc chân tay đơn giản như vệ sinh, phụ bếp,...Số làm khoa học, làm đúng chuyên môn có thể đếm được trên đầu ngón tay.

Cũng may, nhờ tháo vát, chịu khó, người bên Đông đă dần dần ổn định cuộc sống, thu nhập kinh tế của họ đă khá cao tuy sức lực bỏ ra quá lớn. Nhiều người trong họ tâm niệm: "Hy sinh đời bố, củng cố đời con", dồn sức cho sự học hành của con cái. Tỷ lệ học sinh Việt nam học giỏi, được vào đại học rất cao, âu cũng là một nét đặc biệt của những người di dân gốc Việt từ trước tới nay.

Có điều, khi vào được đại học, sự vượt trội của người Việt không c̣n, rất hiếm có sinh viên Việt nam nào học đại học một cách xuất sắc. Có người lư giải hiện tượng này bằng thực tế những sinh viên đó nói chung là sinh ra, lớn lên ở Việt nam, và đă sang Đức vào những năm thân nhân c̣n chưa ổn định. Vậy là, về mặt học hành và sự nghiệp, người Việt ḿnh lại phải kiên tâm hy vọng vào thế hệ sau - vào những đứa con sinh ra và lớn lên ở Đức.

Nhưng thực tế, điều này h́nh như cũng chỉ là một kỳ vọng. Một số thăm ḍ xă hội cho thấy, với cách nuôi dậy con em c̣n ít nhiều nặng tính Khổng giáo, với khả năng tiếng Đức khá yếu, với sự thiếu hụt về kiến thức và ư thức xă hội nói chung, người Việt dường như đang chỉ có khả năng đóng góp cho cộng đồng một giới trẻ chăm chỉ nhưng ít sáng tạo và hầu như chưa có đầu óc phê phán - một trong những động lực của xă hội phương Tây. Chị T., một người Việt rất hăng say hoạt động xă hội và chính trị tại Berlin, khi t́m kiếm thiếu niên người Việt cho Kinderparlament (Nghị viện Trẻ em-một h́nh thức của chính quyền, tụ hợp những thiếu niên có quan tâm và có năng khiếu về chính trị, xă hội để luyện tập việc tŕnh bày và đề xuất phương án giải quyết các vấn đề địa phương và quốc gia), đă rất buồn bă và thất vọng: "Theo tiêu chuẩn của Berlin, th́ chỉ thiếu niên từ 12 đến 16 tuổi mới được tham gia Nghị viện trẻ em.

Từ 16 tuổi trở lên, thanh niên đă phải có ư thức và hoạt động chính trị rơ ràng. Nhưng, thanh thiếu niên Việt nam th́ cho đến 18 tuổi, vẫn hết sức thơ ngây trong chính trị và xă hội. Có một số thanh niên Việt nam bắt đầu quan tâm đến các vấn đề trên, th́ họ đă ở lứa tuổi 19-20, tức là không đủ tiêu chuẩn vào Nghị viện Trẻ em". Nghĩa là, về tầm vóc xă hội, người Việt ḿnh ít nhất cũng "trẻ em" hơn người Đức từ 3 đến 4 tuổi.

Nh́n kỹ, thực trạng "tụt hậu" trên đây không phải chỉ có ở phía Đông, mà cũng là một điều phổ cập cả ở phía Tây. Mặc dù cuộc sống coi như ổn định đă lâu, nhưng sự học hỏi của giới trẻ Việt nam ở Tây Berlin nói riêng và Tây Đức nói chung không hề hơn giới trẻ phía Đông và họ cũng không vượt trội cả về ư thức xă hội. Đó là một sự giống nhau, một sự "thống nhất" của người Việt Đông- Tây; và đáng buồn là ở chỗ "chưa thể bằng người".

Dù sao, một điều dễ nhận thấy là thanh niên Việt nam phía Tây đă hội nhập sâu hơn vào cuộc sống nước Đức - họ tự tin hơn, hồn nhiên hơn. Trong khi nhiều sinh viên Việt nam bên Tây đă theo học, đă tốt nghiệp những ngành "bay bổng" như vũ trụ hàng không, nghệ thuật biểu diễn,...th́ sinh viên bên Đông chủ yếu vẫn theo các ngành "truyền thống", "ăn chắc mặc bền" như tin học, kinh tế, kinh doanh,... Ở đây, tác động của những ông bố, bà mẹ phía Đông "đă một thời khốn khó" đóng một vai tṛ không nhỏ.



-- Ho chi Minh Dam TAC (webmaster@ngoisao.net), September 26, 2004

Answers

Response to Người Việt ở Berlin vĂ  bức tường hình trụ

H́nh như, để bù lại sự cực nhọc và thiệt tḥi, bà con bên Đông có một chốn đi về khá thuận tiện và rẻ tiền là Đất Việt - nơi quê nhà cũ. Từ vài năm gần đây, khi chính sách đối với "kiều bào" của chính quyền trong nước thay đổi, người bên Đông (tuyệt đại đa số vẫn dùng hộ chiếu Việt nam) có thể qua lại Việt nam bất cứ lúc nào mà không cần phải xin thị thực tại Ṭa Đại sứ.

Hầu hết số bà con này c̣n cha mẹ, anh chị em trong nước nên sự đi lại thuận lợi này càng thiết chặt hơn mối quan hệ của họ đối với Việt nam. Nhiều người trở thành chỗ dựa kinh tế quan trọng cho thân nhân trong nước, có người mang tiền về mua nhà cửa, khách sạn cho thuê, ngoài thu nhập tại Đức c̣n có lợi tức hàng ngàn đô la mỗi tháng trong nước; người ít tiền hơn th́ chí ít cũng c̣n một góc nhà, một miếng đất cha mẹ, ông bà chờ đợi.

Rơ ràng, sự gắn bó này, ngoài mặt t́nh cảm c̣n có một mặt không kém phần sắc đậm là vật chất. Theo một thống kê không chính thức, gần 80% người Việt tại Đông Berlin nói riêng và tại Đông Đức nói chung có một số vốn nào đó c̣n "cắm" ở Việt nam.

ùng với "truyền thống lá rụng về cội", cái vốn rất vật chất này cũng là một trong những nguyên nhân sự ḥa nhập rất yếu của người Việt bên Đông vào xă hội Đức. Cô Jane Chang- một nhà xă hội học người Hoa kỳ gốc Trung quốc, sau khi t́m hiểu người Việt tại Đông Đức đă than văn: "Quả thật là tôi rất khó chịu khi thấy người Việt các anh ở đây luôn mong muốn b́nh đẳng và đ̣i hỏi mọi quyền lợi như người Đức trong khi các anh chưa bao giờ coi đất này là quê hương của ḿnh, các anh nguyền rủa nó và chưa bao giờ tự hỏi rằng ḿnh có nghĩa vụ ǵ với nó hay không?"

Khi ở Việt nam có lũ lụt, trong ṿng vài ngày, một hội đoàn Việt nam ở Đông Berlin quyên góp ngay được vài ngàn Euro gửi về trong nước. Lúc cơn lũ thế kỷ tràn qua nước Đức, khi quân đội Đức cùng hàng chục ngàn người t́nh nguyện dầm ḿnh dưới nước đắp đê và chạy lụt cho cả những kho hàng và cửa hiệu Việt nam th́ cũng hội đoàn này, sau vài tuần suy tính đă phải khá chật vật mới quyên được một số tiền khiêm tốn, c̣n trong ḍng người t́nh nguyện tham gia chống lũ, h́nh như chẳng thấy đâu một gương mặt Việt nam.

Tuy đă có hàng trăm người nộp đơn xin nhập quốc tịch Đức sau khi Luật nhập tịch được nới lỏng cách đây gần bốn năm, nhưng trong tiềm thức, đa số người Việt bên Đông vẫn coi nước Đức là một chốn "ăn đậu, ở nhờ", hoặc là một "khu chợ" buôn bán nhất thời.

T́nh trạng làm việc hết sức, nhưng ăn ở lại tạm bợ, để "áo gấm về Việt nam" tiêu tiền như rác ("ở Tây th́ sống như Ta, về Ta th́ sống như Tây"!) vẫn c̣n khá phổ biến. Hệ thống bảo hiểm - một trong những cột trụ của xă hội Đức, vẫn là một điều đáng ghét đối với bà con Việt nam luôn sợ thiệt.

Do tâm thức "đóng vào th́ phải lấy được ra" (và có lăi th́ càng tốt), đă có người về nước ăn chơi 30 ngày vụ hè, khi sang Đức khai bị tai nạn giao thông phải nằm viện 28 ngày, kèm theo "giấy chứng nhận" dởm của bác sỹ Việt nam nhằm mục đích đ̣i tiền bảo hiểm. Có người muốn cho con trai nhập tịch Đức để "mọi chuyện được thuận lợi như người Đức", nhưng phải vắt óc t́m cách "tránh cho cháu phải đi lính nghĩa vụ".

Nh́n chung, người Việt bên Đông Đức vẫn coi đây là "cơi tạm", là một quăng chặng làm ăn, trong đó người ta trông mong và phấn đấu cho mọi lợi ích có thể có, người ta gạt đẩy mọi trách nhiệm và hầu như không có sự gắn bó t́nh cảm. Sự này, đối với Việt nam, chẳng biết có nên vui?

Khác với phía Đông, mối gắn bó với trong nước của người Việt ở Tây Berlin hầu như không liên quan đến vật chất, mà chỉ mang tính tinh thần, mang cái bóng dáng của một hoài niệm cố hương. Anh A., ngày xưa vượt biển sang đây, học phổ thông, học nghề ở Đức, nay là một thợ điện lành nghề cho một công ty thành phố; anh vẫn giữ quốc tịch Việt nam, có vợ Việt nam, nhưng mẹ anh đang ở Đức, mấy anh em th́ người ở Đức, người ở Hoa kỳ. 3-4 năm một lần anh cũng "đi phép thăm Việt nam".

Quê anh ở Sài g̣n, nhưng ở đó hầu như "chẳng c̣n ai thân thích" nên gia đ́nh anh thường về Hà nội. Sau mỗi lần, anh lại cho bạn bè ở Đức xem những cuốn Video anh "du lịch" Việt nam- gần giống như những cuốn băng anh thu từ chuyến đi Las Vegas, Majorca hay Cyprus. Cũng có những người c̣n họ hàng trong nước, nhưng không c̣n hộ chiếu Việt nam, "xin thị thực về thăm quê cũng phải mất vài tuần để Sứ quán họ xét, nên cũng ngại".

Một số người v́ lư do chính trị, "nếu có xin thị thực cũng không được cấp", nên chẳng biết đến bao giờ mới được thấy lại quê hương. Con cháu những người này, mặc cho cha mẹ ông bà cố gắng đến đâu, cũng vẫn coi Việt nam là một vùng xa lạ. Nói chung, ḷng yêu quê hương của người Việt phía Tây mang nặng t́nh thâm đối với một cái đă qua, kèm theo một vài tia hy vọng. Liệu rằng sẽ có lúc, hiện tại và tương lai sẽ đón họ về Việt nam với những nhiệt t́nh thủa cũ? Có vẻ như, niềm hy vọng vẫn c̣n khá lớn, nên mặc dù v́ những lư do khác nhau, nhưng chính ở Tây Berlin mới là nơi hay diễn ra những buổi gặp gỡ xoay quanh những vấn đề của Việt nam, chứ không phải bên Đông - trừ những buổi họp của Ṭa Đại sứ được "đóng đô" cũng ở phía Đông.

ó điều, thời gian bao giờ cũng là vô địch. Với người Việt tại Tây Berlin, thời gian không ngừng xói ṃn sự gắn bó và hy vọng đối với quê hương. Anh S., một chuyên viên tạo mẫu xe hơi, tâm sự: "Do tham gia một hội đoàn hải ngọai nên đă rất lâu tôi không được về nhà, nhớ lắm! Giờ đă 55 tuổi rồi, nếu có điều kiện th́ c̣n có thể đóng góp cho đất nước 5-7 năm nữa. Sau thời gian này, nếu có được phép, th́ cũng chỉ về Việt nam để tĩnh già, hay để thăm thú "cưỡi ngựa xe hoa" thôi. Nỗi "chia ĺa" chầm chậm này, ở bên Đông cũng diễn ra, nhưng với bên Tây, nó đau đớn hơn, v́ ít nhiều là một sự bắt buộc khách quan.

Bức tường h́nh trụ

rên toàn nước Đức, tất cả những khác biệt đặc thù trên đây chỉ là bề nổi, chỉ là hiện tượng. Điều đáng nói hơn là những dị biệt ngầm sâu, dị biệt tư duy.

Bê tông cốt thép của bức tường ngăn cách Đông-Tây Berlin vỡ vụn từ 13 năm hầu như vẫn để lại nguyên vẹn sự cách chia trong suy nghĩ, trong tư tưởng giữa người Việt Đông-Tây; và, buồn hơn cả thân phận người Đức, dân Việt ḿnh c̣n bị níu kéo thêm bởi sự phân tuyến tinh thần được "di tản" từ Việt nam qua.

Vào những ngày bức tường Berlin mới sụp, nhiều bà con bên Tây hân hoan, tận t́nh chào đón những người đồng hương "mới thoát cũi, sổ lồng". Thế rồi, tiếp theo vài tháng mặn nồng t́nh nghĩa đồng bào, là một cảm nhận thất vọng bẽ bàng.

Anh B., một kỹ sư tin học ở Tây Berlin từ 1972, đă đứng liền hàng tuần lễ bên những chỗ tường đổ t́m gặp và mời về nhà ḿnh những người bà con từ bên Đông, để sau khi tay bắt mặt mừng mới nhận thấy rằng "họ không thể nói chuyện được với nhau, nhất là những vấn đề về đất nước.

H́nh như, đầu óc những người bên Đông c̣n đặc sệt ư thức hệ cộng sản". Anh C., cựu đội trưởng một đội "hợp tác lao động", không nhận vé máy bay về Việt nam cùng 3000 DM tiền nước Đức bồi thường do hủy bỏ hợp đồng, kiên quyết ở lại Berlin, sau thời gian choáng ngợp với sự huy hoàng của Tây Berlin, lại quay về ngụ tại bên Đông với một niềm tâm sự: "Dân bên đó -tức người Việt nam ở Tây Berlin, chẳng hiểu biết ǵ về chúng tôi.

Chuyện chính trị của họ sặc mùi phản động". Những định kiến về nhau như vậy, cho đến nay, hầu như vẫn không hề phai nhạt. Vậy cho nên mỗi khi đến Tết Nguyên đán, Rằm Trung thu,...bà con hai bên đều phải tổ chức riêng. Ai đó "dũng cảm" đi thăm ḍ "phía bên kia", thường phải trải qua những kinh nghiệm không dễ chịu, để "một lần đi rồi không bao giờ quay trở lại".

Thực ra, vài năm sau khi nước Đức thống nhất, đă bắt đầu có sự "giao thoa" nhân khẩu: một số người bên Đông thuê nhà ở bên Tây, và ngược lại; nhưng để vui vẻ, ḥa đồng với bạn bè, họ bao giờ cũng t́m về chốn cũ.

Phần đa xuất thân từ miền Bắc, mang gốc gác "xă hội chủ nghĩa", người bên Đông cảm thấy ngỡ ngàng, khó chịu khi phải đứng chào cờ vàng ba sọc của chế độ Việt nam Cộng ḥa thuở trước để rồi sau đó được nghe những câu "quốc hận", "nhà tù quỷ đỏ" trong nhiều buổi hội họp bên Tây.

Phần lớn ra đi từ miền Nam, nhiều người bên Tây đă phải chịu cưỡng bách, tù đầy, đă mất đi cả một cơ nghiệp, tương lai, cả một cuộc đời nhiều người hy vọng, và đă không ít người mất cả vợ con trên đường vượt biển. Họ sẽ có cảm giác bị làm nhục khi phải vỗ tay rào rạt lúc ai đó tặng hoa cảm ơn ông đại sứ Hà nội đă đến dự một lễ hội bên Đông. Tại đó, họ sẽ phải âm thầm choáng váng khi được nghe hát vang "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng".

Sẽ chẳng có ǵ là phóng đại khi thấy rằng: Người Việt tại đây chưa được chữa lành vết thương chia cắt Đông-Tây, và cũng chẳng có ai giúp họ lấp rănh đào ngăn cách Bắc- Nam ngày trước. Vĩ tuyến 17 đă được người ḿnh mang ra nước ngoài và vẫn lù lù một cách vô h́nh tại đất Berlin.

Anh C., xưa kia là đại úy "Quân đội nhân dân Việt nam", nay cả vợ chồng con cái đang cặm cụi trong một "Quán Tầu" nhỏ tại Đông Berlin, sau khi bị cô con gái kéo sang dự một buổi dạ hội sinh viên tại Tây Berlin, về nhà tức tối: "Đù mẹ (một câu chửi anh học được trong những ngày "chiến đấu" tại miền Nam), dạ hội ǵ mà chúng nó treo cờ ngụy.

Ngồi cạnh tôi là một thằng trước kia là sỹ quan cộng ḥa, bị cải tạo 2 năm rồi di tản sang đây.

Tôi bảo nó: Sao chúng mày ngoan cố thế? Mày cư=B

" DONG TAM HIEP LUC GIAI TRU CONG SAN QUANG PHUC QUE HUONG " ********************************************************************* *****

********************************************************************* ***** ********************************************************************* *****

-- Ho chi Minh Dam TAC (vietnamcongsans nuoi Heo nhieu qua'' @yahoo.com), September 26, 2004.


Response to Người Việt ở Berlin vĂ  bức tường hình trụ

Càng ngày nước CHXHCN càng chứng minh với thế giới họ là cái ung nhột lớn nhất thế giới :

1 ) Đệ nhứt Sida .

2 ) Đệ nhứt buôn bán măi dâm ,phụ nữ .

3 ) Đệ nhứt buôn bán ma tuư .

4 ) Đệ nhứt rửa tiên .

5 ) Đệ nhứt trồng cần sa .

6 ) Đệ nhứt ma co ma cạo .

7 ) Đệ nhứt tống tiền ,bắt cóc .

8 ) Đệ nhứt nhập cư trái phép .

9 ) Đệ nhứt ăn cắp ,ăn trộm ,ăn bẩn .

10) Đệ nhứt xuất cảng nô lệ và du sinh (ở ĺ không về nước).

-- thich du thu (toollovers@comcast.net), September 26, 2004.


Response to Người Việt ở Berlin vĂ  bức tường hình trụ

Xin duoc viet them vai cai de nhat nua

Con nhieu cai de nhat nua ???

De nhat tham nhung

De nhat noi phet, noi lao, hua hen lao leu

De nhat an may tren the gioi

De nhat vo liem si va chui tuc ( may thang cong o forum nay noi phet va chui tuc nhat )

-- trbapi (trbapi@yahoo.de), September 26, 2004.


Moderation questions? read the FAQ