Cộng đồng người Tây Nguyên trước 1954 1954-2004: 50 năm Tây tiến của VN

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

Ya Biloh : 1954-2004: 50 năm Tây tiến của VN

Việt Luận, 27/10/04

Ya Biloh (Cheo Reo)

Cộng đồng người Tây Nguyên trước 1954

Lănh thổ miền trung VN, bao gồm cả vùng đồng bằng duyên hải và cao nguyên, chạy dài từ Quảng B́nh đến địa phận Biên Ḥa.

Vùng đất này trước kia thuộc vương quốc Champa, được h́nh thành vào cuối thế kỷ thứ 2, mang nhiều ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ. Sau khi giành được độc lập vào thế kỷ thứ 10, các vua chúa Đại Việt bắt đầu cuộc Nam Tiến, lănh thổ của vương quốc Champa đă lần lượt bị mất dần và đến năm 1832 th́ mất hẳn.

Ngày nay, vương quốc Champa tuy không c̣n nữa nhưng dân tộc Champa vẫn c̣n. Hơn 800,000 người cư ngụ trên Tây Nguyên và 100,000 người Chăm sinh sống dọc vùng duyên hải Phan Rang, Phan Rí. Đó là chưa tính hơn 400,000 di dân Chăm đă đến Campuchia, khu vực Châu Đốc và Tây Ninh lập nghiệp.

Theo Hiệp ước Harmand mà người Pháp kư với triều đ́nh Huế ngày 25-8-1883, các cộng đồng dân tộc thiểu số thuộc tỉnh B́nh Thuận và khu vực Đồng Nai (Chăm, Churu, Raglai Kaho, Stieng, Mạ, v.v.) trực thuộc vào chính quyền Pháp ơ? Nam Kỳ và được hưởng một chế độ đặc biệt, gọi là quy chế Harmand, theo đó mọi văn bản về thuế má, luật lệ và hành chánh đều được viết bằng tiếng Chăm và tiếng Pháp thay v́ bằng chữ Hán.

Trên cao nguyên miền Trung, trong giai đoạn từ 1832 đến 1895, người Tây Nguyên sinh sống hoàn toàn độc lập v́ không trực thuộc bất cứ chính quyền nào. Họ tự do sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng truyền thống, v́ nếp sống của họ không va chạm với bất cứ nền văn hóa nào tại đồng bằng.

Hơn nữa, họ cũng không có quan hệ trực tiếp với ai và cũng không người lạ mặt nào, kể ca? người Kinh và người Xiêm La, phiêu lưu trên vùng đất xa lạ này trước khi các giáo sĩ Công giáo Pháp t́m đường lên cao nguyên B́nh Định năm 1842 trốn tránh các vụ bắt giết người theo đạo tại đồng bằng và đă thành lập xứ đạo Kontum năm 1852.

Từ 1859 đến 1867, sau khi làm chu? Nam Kỳ, người Pháp bắt đầu tổ chức những cuộc thám hiểm qui mô trên vùng đất này. Năm 1895, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định sap nhập Tây Nguyên vào lănh thổ hành chánh Đông Dương nhưng vẫn để người Tây Nguyên sinh hoạt theo văn hóa truyền thống của họ.

Chỉ từ sau đệ nhị thế chiến (1945), Tây Nguyên trở thành khu vực quân sự chiến lược giữa quân đội Pháp và phong trào Việt Minh, đời sống người Tây Nguyên mất đi sự độc lập. Để bảo đảm an ninh trật tự trên vùng đất này, ngày 27-5-1946 chính quyền thuộc địa Pháp thành lập một lănh thổ tự tri. dành cho người Tây Nguyên, gọi là "Pays Montagnard du Sud Indochinois" (Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương), viết tắt là PMSI, đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của người Pháp, biệt lập với người Kinh ở đồng bằng.

"Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương" được hưởng một quy chế đặc biệt, nghĩa là có nền hành chánh riêng, những ṭa án phong tục riêng và chương tŕnh giáo dục riêng dành cho người thiểu số. Chính quyền thuộc địa Pháp tuyển chọn và đào tạo những thanh thiếu niên thuộc các gia đ́nh vọng tộc người Tây Nguyên và Chăm vào Collège Sabatier (trường trung học cấp hai) ơ? Buôn Ma Thuột và Lycée Yersin (trường trung học cấp ba) ơ? Đà Lạt, một số khác được tuyển vào các đơn vị quân sự địa phương.

Mục đích của người Pháp trước hết là nâng cao tŕnh độ dân trí của người thiểu số để sau đó giúp họ quản trị vùng đất này.

Với thời gian, một số thanh niên ưu tú này đă tự kết hợp lại thành một nhóm nhân sĩ, có lập trường chính trị rơ ràng để bảo vệ quyền sống của dân tộc ho. trên cao nguyên. Nói chung, nhóm nhân sĩ Tây Nguyên này không muốn bị người Kinh tiếp tục khinh khi gọi họ là "Man", "Mọi" hay "Hời".

Vấn đề là cho tới 1954, nghĩa là từ sau khi có độc lập, cộng đồng người Kinh ơ? đồng bằng vẫn không hề hay biết hay không quan tâm ǵ tới những chuyển biến tâm lư và văn hóa quan trọng này trong ḷng người Tây Nguyên.

Ngoài chương tŕnh đào tạo hành chánh và quân sự dành riêng cho người bản xứ, từ 1923 đến 1938, người Pháp cũng đă đầu tư rất nhiều vào những dự án phát triển cơ sở hạ tầng nhằm củng cố sự cai trị và khai thác tài nguyên trên Tây Nguyên, "Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương" trở thành một khu vực trù phú và an b́nh. Lo sơ.

Tây Nguyên bị sáp nhập vào lănh thô? Nam Kỳ, vua Bảo Đại yêu cầu chính quyền thuộc địa Pháp thừa nhận chủ quyền của triều đ́nh Huế trên vùng đất này và đă được chấp nhận. Ngày 21-5-1951, "Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương" được Pháp nh́n nhận trực thuộc Hoàng Triều Cương Thổ (Domaine de la Couronne), do Bảo Đại lănh đạo, nhưng được hưởng một qui chế đặc biệt: Không ai có quyền sang nhượng lănh thổ này cho một quốc gia khác nếu không có sự đồng ư của nhà vua và cộng đồng người Tây Nguyên được xác nhận không phải là người Kinh (non-annamites).

Hoàng Triều Cương Thổ trên danh nghĩa là một lănh địa tự trị, trong thực tế mọi quyền quyết định đều do người Pháp chủ động. Nói cách khác, Tây Nguyên là một vùng tự trị trực thuộc Pháp. Trong qui chế mới này, để bảo đảm cho người Tây Nguyên nếp sống tự do theo truyền thống, người Pháp hạn chế tối đa, nếu không muốn nói là cấm hẳn, mọi phong trào di dân của người Kinh vào lănh thổ này, trừ những nhân viên hành chánh và quân sự được người tuyển mộ lên làm việc nhưng phải trở về đồng bằng khi hợp đồng măn hạn. Chính v́ thế, cho tới năm 1953, chỉ có khoảng 35,000 người Kinh sinh sống trên một khu vực chạy dài từ cao nguyên Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc đến Lâm Đồng, đa số là quân nhân, công chức làm việc trong các cơ quan hành chánh của Pháp, một số khác đến canh tác hoa màu để phục vụ người Pháp tại đây và chỉ tập cư quanh các thị trấn lớn như Đà Lạt, Buôn Ma Thuột.

Nói tóm lại, trong suốt 18 thế kỷ nằm trong quỹ đạo chính trị của vương quốc Champa và hơn 60 năm dưới chế đô. Pháp thuộc, cộng đồng người Tây Nguyên sống hoàn toàn biệt lập với người Kinh đồng bằng. Đại đa số gần như chưa bao giờ thấy hay tiếp xúc với người Kinh và cũng không biết người Kinh nói tiếng ǵ. Những người hiểu biết hơn gọi người Kinh là "Yuon" hay "Yavana" (theo tiếng Phạn, đó là người ngoài, không cùng văn hóa với ḿnh).

Sau Hiệp Định Genève 1954 Khi hiệp định Genève, kư ngày 21-7-1954, bắt đầu có hiệu lực, định chế Hoàng Triều Cương Thổ bị giải tán và "Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương" được giao lại cho chính quyền VN Cộng Ḥa, do thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm lănh đạo, ngày 11-3-1955. Chủ tâm của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm khi sáp nhập phần đất này vào lănh thô? VN Cộng Ḥa là để xác nhận chủ quyền và vai tṛ lănh đạo của người Kinh trên cao nguyên miền Trung.

Quyết định xóa bo? Hoàng Triều Cương Thổ dành cho người Tây Nguyên cũng là xóa bỏ "Quy Chế Harmand" dành cho cộng đồng người Chăm sinh sống dọc vùng duyên hải các tỉnh Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết. Cộng đồng người Champa được đổi tên thành người Thượng và người Chàm. Cả hai cộng đồng này cùng với người Miên, người Hoa và các nhóm sắc tộc di cư từ miền Bắc sau 1954 có tên gọi chung là những "sắc tộc thiểu số".

Từ đầu năm 1955 trở đi, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đă đưa khoảng 700,000 di dân miền Bắc, trong đó có hơn 20,000 người thiểu số từ các miền thượng du Bắc Việt, lên Tây Nguyên lập nghiệp, số c̣n lại định cư tại Sài G̣n và vùng ven đô.

Những di dân gốc Kinh trên Tây Nguyên sống tập trung trong các thị trấn lớn, dọc các quốc lộ và vùng Phan Rang, Phan Rí. Sự hiện diện quá đông đảo của những di dân làm đảo lộn lối sống cổ truyền của những nhóm dân cư bản địa đă có mặt từ trước, sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Tây Nguyên và người Chăm mai một dần với thời gian.

Thêm vào đó, chính sách Việt hóa triệt để của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đă để lại nhiều vết thương khó hàn gắn, nhất là với người Hoa và người Tây Nguyên. Đây là khúc quanh lịch sử đă tạo ra các biến cố dẫn đến sự vùng dậy đ̣i quyền sống của các dân tộc Tây Nguyên và Chăm. Hai cộng đồng này không chống lại sư. lệ thuộc vào chính quyền VN, họ chỉ muốn chính quyền VN Cộng Ḥa nh́n nhận và tôn trọng những quyền cổ truyền như quyền làm chủ đất đai, quyền phát triển tiếng nói và phong tục tập quán của họ... nhưng không thành. 1955 là năm khởi động tiếng chuông báo hiệu của sư. vùng dậy đó. Sau khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố băi bỏ các ṭa án phong tục và quyền làm chủ đất đai cổ truyền (cơ cấu tổ chức kinh tế, xă hội và tín ngưỡng của ḿnh), một số trí thức và nhân sĩ Tây Nguyên (đa số xuất thân từ các trường do người Pháp đào tạo) đă cùng nhau họp lại bàn thảo về sự sống c̣n của dân tộc họ dưới chế đô. Ngô Đ́nh Diệm.

Đầu năm 1955, những người này thành lập một tổ chức mang tên "Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Cao Nguyên". Y Mot Nie Kdam được bầu làm chủ tịch, Y Thih Eban làm tổng thư kư. Tháng 3-1955, Y Thih Eban thảo một văn thư gởi thu? tướng Ngô Đ́nh Diệm yêu cầu: Tôn trọng phong tục tập quán và truyền thống tín ngưỡng của dân tộc thiểu số; áp dụng chính sách công bằng giữa dân tộc thiểu số và người Kinh; trả lại cho người Tây Nguyên tất ca? đất đai mà người Kinh hay chính phủ đă trưng dụng. Chẳng những không trả lời, tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đắc cử ngày 23-10-1955, ban hành những biện pháp khắc khe hơn đối với người Tây Nguyên: Phủ nhận quyền sơ? hữu đất đai cổ truyền; băi bỏ các ṭa án phong tục; cấm dạy thổ ngữ; đưa hàng trăm ngàn người Kinh lên Tây Nguyên khai thác các vùng đất mới.

Quá thất vọng, đầu năm 1958, những người lănh đạo Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Cao Nguyên thành lập một ủy ban điều hành mới để t́m một phương pháp đấu tranh khác hữu hiệu hơn. Ông Y Bham Enoul được ủy nhiệm làm chủ tịch. Ban lănh đạo mới tập trung mọi nỗ lực vào việc nghiên cứu một chiến lược khả dĩ tạo ra một sức mạnh đủ để tiếng nói của toàn thể các sắc tộc Tây Nguyên được tôn trọng và được lắng nghe, không những ở trong nước mà cả ở ngoài nước, nghĩa là phải có tầm vóc quốc tế.

Ngày 1-5-1958, ban chấp hành Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Cao Nguyên cho ra đời tổ chức Bajaraka (chữ viết tắt của bốn sắc tộc lớn: Bahnar, Jarai, Radé và Kaho). Đây là tổ chức chính trị đầu tiên của người Tây Nguyên chủ trương đấu tranh bất bạo động, yêu cầu tái lập lại quy chế "Hoàng Triều Cương Thổ" và chấm dứt mọi chính sách phân biệt đối xử với người thiểu số.

Hai tháng sau, ngày 25-7-1958, Y Bham Enoul cùng 16 thành viên Bajaraka kư tên chung trong một văn thư gởi tổng thư kư Liên Hiệp Quốc, đại sứ Mỹ, Pháp, Anh ơ? Sài G̣n, yêu cầu can thiệp với chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tái lập lại quy chế tự trị ơ? Tây Nguyên. Ngày 8-9-1958, Y Bham Enoul, với tư cách là chủ tịch phong trào Bajaraka, gởi một văn thư chính thức cho tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, yêu cầu ban hành một chính sách mới cho người thiểu số. Hai ông Y Dhơn Adrong và Y Mot Nie đem thư này về Sài G̣n trao cho văn pḥng phủ tổng thống. Nhận được thư, tổng thống Ngô Đ́nh Diệm liền ra lệnh truy nă và bắt giam tất cả những người đă kư tên trong văn thư: Các ông Paul Nưr, Y Thih Eban, Y Bham Enoul, Y Ju Eban, Nay Luett... Ngày 26-11-1958, có tin đồn người Tây Nguyên sẽ nổi lên tấn công các ngục giam để giải thoát những thành viên Bajaraka bị bắt, chính quyền Sài G̣n liền đưa ông Y Bham Enoul về Huế giam và những thành viên Bajaraka khác về trại giam ơ? Sài G̣n, đồng thời thuyên chuyển những cán bộ, viên chức dân sự và quân sự, t́nh nghi có liên hê. với phong trào Bajaraka, về làm việc ở các tỉnh đồng bằng.

Ngày 1-5-1962, từ ngục giam, ông Y Thih Eban gởi một bức thư khác cho đại sứ Hoa Kỳ ơ? Sài G̣n yêu cầu can thiệp với tổng thống Ngô Đ́nh Diệm trả tự do cho tất ca? thành viên Bajaraka bị giam giữ. Ngày 18-8-1962, 5 thành viên Bajaraka được trả tự do, đó là các ông Y Thih Eban, Nay Luett, Toneh Yoh, Siu Sipp, Y Du Eban, trong khi các ông Y Bham Enoul và Paul Nưr vẫn tiếp tục bi giam.

Tháng 6-1963, ông Y Thih Eban nhậm chức quận trưởng Buôn Sarpa, một căn cứ quân sự của lực lượng đặc biệt Mỹ gần biên giới Campuchia mà đa số thành viên đều thuộc phong trào Bajaraka. Tại Buôn Sarpar, Y Thih Eban giao cho thiếu úy Y Nam Eban trách nhiệm lănh đạo quân sự cán bô. Bajaraka và cư? Y Klong Nie sang Campuchia liên lạc viên với trung tá Les Kosem (một lănh tục gốc Chăm ơ? Nam Vang) t́m giải pháp đưa Y Bham Enoul ra khỏi ngục giam. Sau ngày gặp gỡ với Y Klong Nie ở thủ đô Nam Vang, Les Kosem hứa là sẽ dành cho Y Bham Enoul và thành viên Bajaraka một sự đón tiếp nồng hậu nếu Y Bham sang Campuchia.

Mọi chuyện đang được xúc tiến th́ cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ngày 1-11-1963 đă làm thay đổi toàn bộ thế cờ chính trị miền Nam VN, trong đó có người Tây Nguyên. Toàn bộ những người trong phong trào Barajaka c̣n bị giam giữ đều được tra? tự do.

Một ngày đầu tháng 3-1964, Y Bham Enoul cư? Y Klong Nie sang Campuchia gặp trung tá Les Kosem tại bờ sông Dam cạnh vùng biên giới Việt-Miên. Trong cuộc gặp gỡ này, Y Klong Nie yêu cầu Les Kosem phải bằng mọi cách bảo vệ tánh mạng những người lănh đạo phong trào Bajaraka khi bị cảnh sát VN Cộng Ḥa truy nă lần nữa. Trung tá Les Kosem nhờ Y Klong Nie giao tận tay Y Bham Enoul bức thư trả lời, theo đó Les Kosem bày tỏ ḷng ngưỡng mộ của ông ta đối với sự hy sinh cao cả của ông Y Bham Enoul cho lư tưởng dân tộc, một người mà Les Kosem nh́n nhận là bậc đàn anh của dân tộc Champa, và hứa là sẽ bằng mọi cách giúp các thành viên Bajaraka và Y Bham Enoul sang Campuchia một khi t́nh h́nh chính trị ơ? VN đưa họ vào ngơ cụt.

Trong một cuộc trao đổi nội bộ, Y Dhơn Adrong, Y Nhuin Hmok và Y Nham Eban chấp nhận đưa các thành viên Bajaraka sang Campuchia hợp tác với Les Kosem.

Ngày 20-9-1964, một số sĩ quan gốc Chăm và Khmer Krom thuộc quân đội hoàng gia Campuchia, do Les Kosem đứng đầu, tập trung một số cán bộ hành chánh và quân sư. thành lập một mặt trận chung gọi là Front Unifié de Lutte des Races Opprimées, viết tắt là FULRO (Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Các Chủng Tộc Bi. Áp Bức). Trong thực tế Fulro là tập hợp của ba mặt trận:

- Mặt Trận Giải Phóng Campuchia Krom (lănh thổ từ Sài G̣n đến mũi Cà Mau).

- Mặt Trận Giải Phóng Campuchia Bắc (vùng Champassak ơ? Nam Lào).

- Mặt trận giải phóng Champa (Tây Nguyên và các tỉnh Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết).

Để chính thức hóa liên minh chính trị này, những người lănh đạo Fulro (phái đoàn Bajaraka, trung tá Les Kosem và trung tá Um Savuth, một lănh tu. Khmer Krom) vẽ ra lá cờ Fulro đầu tiên h́nh chữ nhật gồm ba sọc màu xanh biển (tượng trưng cho biển cả), màu đỏ (biểu tượng của đấu tranh) và màu xanh lá cây (màu của rừng núi). Trên sọc màu đỏ có ba ngôi sao màu trắng tượng trưng cho ba mặt trận của Fulro: Campuchia Krom, Campuchia Bắc và Champa. Trong suốt quá tŕnh đấu tranh bằng vũ lực, mà hàng ngàn người Tây Nguyên đă hy sinh trên các chiến trường, mặt trận Fulro đă không đạt được mục tiêu đề ra là xây dựng một lănh thổ "Tây Nguyên-Champa tự trị", nhưng tổ chức này đă đánh động được dư luận VN và nước ngoài quan tâm đến những đ̣i hỏi của cộng đồng người Tây Nguyên và Chăm trong quốc gia VN.

Năm 1969, chính quyền VN Cộng Ḥa đă tỏ ra đặc biệt quan tâm tới tương lai của người gốc Tây Nguyên và Chăm bằng cách tiến cử nhiều nhân sĩ xuất thân từ hai cộng đồng này vào những chức vụ cao trong chính quyền và thành lập nhiều định chế chính trị do người thiểu số đứng đầu (Bộ phát triển sắc tộc, hội đồng sắc tộc, quận trưởng, xă trưởng), ngoài ra họ c̣n tham gia trực tiếp vào nhiều định chế như quốc hội, thượng nghị viện, ṭa án...

Cộng đồng người Tây Nguyên từ 1975 tới nay Thời vàng son của người Tây Nguyên chấm dứt năm 1975, cả nước bị đặt dưới quyền lănh đạo của Đảng Cộng Sản VN. Tất cả những qui chế đặc biệt dành riêng cho người thiểu số đều bị băi bỏ.

Lợi dụng t́nh trạng loạn lạc tháng 3-1975, cộng đồng người Tây Nguyên thu nhặt các loại vũ khí bỏ rơi, khi quân đội VN Cộng Ḥa rút lui về đồng bằng, và đứng ra tự bảo vệ buôn làng của ḿnh.

Xung đột liền xảy ra, Tây Nguyên bị đặt dưới quyền lănh đạo trực tiếp của bộ đội. Chênh lệch lực lượng đă quá rơ ràng, người Tây Nguyên không đủ sức chống lại một quân đội mạnh hơn gấp nhiều lần, những người lănh đạo phong trào chống đối nếu không bị giết th́ cũng bi. bắt, một số khác chạy sang Campuchia tiếp tục chống đối tới năm 1982 th́ chấm dứt hẳn.

Từ sau ngày đó, cộng đồng người Tây Nguyên bị phân biệt đối xử. Chính quyền cộng sản đă đưa hàng triệu người từ đồng bằng sông Hồng và miền thượng du Bắc Việt lên Tây Nguyên khai thác. Trước sự lấn át này, địa bàn cư trú của người Tây Nguyên teo hẹp dần, đất đại cổ truyền của họ lần lượt lọt vào tay những di dân mới và người Tây Nguyên trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ.

Niềm an ủi cuối cùng của người Tây Nguyên là theo đạo Tin Lành cũng bị đánh phá.

Các nhà thờ Tin Lành bị niêm phong, toàn bộ sinh hoạt của những hội thánh tư gia đều bị cấm chỉ. Sự nhẫn nại của người Tây Nguyên đă vượt quá sức chịu đựng, đầu năm 2001 hàng chục ngàn người xuống đường đ̣i tự do tôn giáo và trả lại đất đai, và đă bị dập tắt trong bạo lực, hàng ngàn đă phải chạy vào rừng sâu và sang Campuchia trốn lánh, số c̣n lại bị bắt và bị theo dơi. Tháng 4-2004 người Tây Nguyên lại đứng dậy đ̣i quyền sống và cũng bi. trấn áp trong maù lửa.

Trong suốt 50 năm Tây tiến của người Kinh, từ 1954 đến 2004, chưa bao giờ các chính quyền VN có chính sách nâng đỡ và tôn trọng thực sự văn hóa của người Tây Nguyên.

Đă đến lúc phải thay đổi, và thay đổi càng sớm càng tốt, để mọi người VN có thể cùng nhau bắt tay xây dựng lại một tương lai chung.

" DONG TAM HIEP LUC GIAI TRU CONG SAN QUANG PHUC QUE HUONG "

-- Ho chi Minh Dam tac .. (webmaster@VnExpress.net), November 06, 2004


Moderation questions? read the FAQ